4.07 – SƠ ĐỒ ÁNH SÁNG (LIGHTING PLOT)
1.) SƠ ĐỒ ÁNH SÁNG
Thiết kế “vật lý” cho ánh sáng thường được vẽ thành một bản vẽ duy nhất, thường được gọi là SƠ ĐỒ ÁNH SÁNG, (hay Light Plot). Đây là một bản vẽ theo tỷ lệ của nhà hát và khán phòng, với tất cả các thiết bị ánh sáng được vẽ chính xác ở vị trí yêu cầu của nó. Sơ đồ ánh sáng phải hiển thị tất cả các thông tin cần thiết để cho phép các thợ điện cài đặt tất cả ánh sáng, bao gồm thiết bị, hiệu ứng đặc biệt, máy chiếu và các nguồn thiết thực, vị trí của nó thật chính xác. Trong thế giới của nhà hát chuyên nghiệp: "Nếu nó không nằm trên trang giấy, Nó sẽ không hiện diện trên sân khấu"
Sơ đồ ánh sáng phải vẽ cho rõ ràng để cung cấp những thông tin cụ thể. Thông tin nào không cần thiết thì không cần vẽ ra vì nó chỉ làm rối hơn. Hãy nhớ rằng, bản vẽ này là để truyền đạt thông tin rõ ràng cho người khác, không phải để thể hiện kỹ năng vẽ vời của bạn. Sau đây là những quy ước quốc tế được xử dụng:
SƠ ĐỒ (PLOT) thường là một bản vẽ chiều ngang, với sân khấu chạy tử phải sang trái. Tỷ lệ phổ biến bao gồm 1 /4" = 1’ và 1/2" = 1'. Chọn một tỷ lệ hữu dụng. Hãy thử và xử dụng cùng một tỷ lệ với các bản vẽ kiến trúc nhà hát và thiết kế sân khấu xử dụng. Tỷ lệ không thích hợp có thể dẫn đến một bản vẽ quá lớn để dễ dàng xử lý hay quá nhỏ để hiển thị các thông tin cần thiết và chi tiết thật rõ ràng.
2) SƠ ĐỒ ÁNH SÁNG CHI TIẾT
A.) Đường viền TƯỜNG NHÀ HÁT & KHÁN PHÒNG - (nét đậm lớn)
B.) Đường viền PHÔNG CẢNH SÂN KHẤU - (Nét chấm chấm nhỏ)
C.) Đường giữa sân khấu - (nét chấm, gạch)
D.) Tất cả các vị trí ánh sáng (sào) - (nét đậm nhỏ)
E.) KÝ HIỆU THIẾT BỊ (FIXTURE SYMBOL), vẽ vị trí chính xác (bao gồm a. - h.)
--------------------------------------
a.) LOẠI & CÔNG SUẤT (TYPE & WATTAGE) (thể hiện bằng những ký hiệu mẫu tiêu chuẩn)
b.) ĐƠN VỊ # (UNIT) (được hiển thị bởi “chữ số” trên ký hiệu thiết bị)
c.) MÀU # (COLOR) (bộ lọc MÀU số (# xx) trước ống kính)
d.) PHỤ KIỆN (gobos, gobo, đĩa màu, v.v)
e.) CIRCUIT # (một “vòng tròn” được gắn vào bởi thợ điện)
f.) DIMMER # (tùy chọn)
g.) KÊNH # (CHANNEL) (tùy chọn)
h.) TIÊU ĐIỂM (FOCUS) (tùy chọn)
F.) KEY CHO KÝ HIỆU (Hiển thị từng ký hiệu, với loại thiết bị & công suất)
G.) KHUNG ĐẦU ĐỀ (TITLE BLOCK), với:
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
a.) TÊN BẢN VẼ: SƠ ĐỒ ÁNH SÁNG d.) TÊN NGƯỜI THIẾT KẾ & (ĐẠO DIỄN)
b.) TÊN CHƯƠNG TRÌNH e.) TỶ LỆ của bản vẽ
c.) TÊN NHÀ HÁT / ĐỊA ĐIỂM f.) NGÀY của bản vẽ
H.) GHI CHÚ hay LỊCH TRÌNH ĐẶC BIỆT
Cung cấp một chỗ ghi chú để “đánh số”, và các chi tiết nếu cần.
4.08 – SỰ CÂU KẾT (HOOK-UP)
1.) SỰ CÂU KẾT
Bằng cách nào đó, tất cả các ký hiệu ánh sáng hiển thị trên sơ đồ ánh sáng phải được kết nối qua mạch điện của nó đến dimmers và sau đó đến các channel (kênh) của bộ điều khiển ánh sáng. Đây chỉ là số thứ tự của channel mà người thiết kế ánh sáng quan tâm cuối cùng. Họ thường sẽ gán hay “nối-patch” từ dimmers cụ thể đến các channel cụ thể, theo một trình tự và sắp xếp hợp lý. Một vài hệ thống cũ đòi hỏi trước hết mạch điện phải cắm vào dimmer qua “bảng-patch”. Trong trường hợp này, có thể gán cho nhiều mạch đến một dimmer. Trong vài hệ thống điều khiển cũ, số thứ tự của dimmer cũng là số channel. Trong các hệ thống mới hơn, mỗi dimmer có thể gán cho bất kỳ channel nào bằng “soft-patch”. Vì vậy, các Hook-up phải thể hiện rõ ràng và hợp lý các mối quan hệ giữa các số mạch, số dimmer và số channel. Một lần nữa, trình tự cắm dây hay patch phải hợp lý và có tổ chức.
HOOK-UP, (hay LỊCH TRÌNH CHANNEL) là một danh sách số thứ tự của tất cả các channel đang xử dụng trong một chương trình cụ thể. Lịch trình này không chỉ có chứa mạch, dimmer và gán channel, nó cũng cho thấy tóm tắt chi tiết của tất cả các thiết bị, được hiển thị trên sơ đồ ánh sáng. Một HOOK-UP điển hình sẽ hiển thị CHANNEL#, DIMMER#, CIRCUIT#, THIẾT BỊ#, và (Loại, Watts, mục tiêu, phụ kiện & bộ lọc màu, cho tất cả các thiết bị). Lịch trình này là vô giá cho người thiết kế ánh sáng và đội kỹ thuật điện.
Thông thường một chương trình quy mô nhỏ có thể yêu cầu 12-24 dimmer, có thể lên đến 24 channel. chương trình quy mô lớn có thể đòi hỏi hơn 500 dimmers có thể gán đến 300 channel điều khiển. Mặc dù lịch trình này có thể được chuẩn bị bằng vẽ tay, một số chương trình máy tính đang hiện có sẽ giúp người thiết kế khá tốt. “Lightwright", một chương trình soạn thảo của (John McKernon) tạo ra một "hook-up” tương tự như sau:
CHANNEL HOOK-UP |
DATE: 2005-12-31 |
|||||||||
PRODUCTION: WAR & PEACE |
Page 1/x |
|||||||||
CH. |
DIM. |
CIR |
POSITION |
UNIT# |
TYPE |
WATTS |
PURPOSE |
ACCES. |
COLOR |
|
1 |
45 65 |
45 65 |
#1 Bridge – 1 #1 Bridge - 17 |
30 deg. 30 deg. |
E.R. E.R. |
1000 1000 |
AREA 1 AREA 1 |
Gobo5 Gobo5 |
R08 R08 |
|
2 |
46 66 |
46 66 |
#1 Bridge – 2 #1 Bridge - 18 |
30 deg. 30 deg. |
E.R. E.R. |
1000 1000 |
AREA 2 AREA 2 |
Gobo5 Gobo5 |
R66 R66 |
|
3 |
120 132 |
120 132 |
#1 Pipe -1 #1 Pipe -15 |
6" Fresnel 6" Fresnel |
|
1000 1000 |
AREA 3 AREA 3 |
Doors Doors |
R08 R08 |
|
4 |
121 138 |
121 138 |
#1 Pipe -7 #1 Pipe -16 |
6" Fresnel 6" Fresnel |
|
1000 1000 |
AREA 4 AREA 4 |
Doors Doors |
R66 R66 |
|
5 |
118 |
118 |
#1 Pipe -7 |
20 deg. |
E.R. |
750 |
WINDOW-R |
- |
R88 |
|
6 |
119 |
119 |
#1 Pipe -8 |
20 deg. |
E.R. |
750 |
WINDOW-C |
- |
R88 |
|
7 |
121 |
121 |
#1 Pipe -9 |
20 deg. |
E.R. |
750 |
WINDOW-L |
- |
R88 |
|
4.09 - LỊCH TRÌNH CÔNG CỤ (INSTRUMENT SCHEDULE)
1.) LỊCH TRÌNH CÔNG CỤ
LỊCH TRÌNH CÔNG CỤ là một danh sách chi tiết của tất cả các thiết bị trên sơ đồ ánh sáng, thể hiện vị trí treo Nó cho phép các thợ điện trưởng nhanh chóng xác định tất cả các chi tiết, thiết bị bất kỳ.
Mỗi thiết bị (đơn vị) được đều được gán cho một số thứ tự. Kết quả là, bất kỳ thiết bị nào cũng có thể xác định dễ dàng bằng VỊ TRÍ (POSITION) và ĐƠN VỊ (UNIT) #. Thí dụ: # 1 Bridge-5, #1 Pipe 12, # 1 Boom-8.
Vị trí thường được liệt kê theo thứ tự sau đây:
a.) từ bức màn đến phía sau khán phòng (trên cao) (1cove, 2cove)
b.) từ bức màn đến phía sau sân khấu (trên cao) (1pipe, 2pipe, v.v)
c.) Chân boom (đứng hay treo)
d.) Vị trí sàn sân khấu
e.) Thiết bị hiệu ứng đặc biệt và thiết bị
Lịch trình công cụ thường được đánh số theo thứ tự sau đây;
a.) từ trái đến phải sân khấu (sào trên cao)
b.) từ trên xuống dưới (chân boom)
c.) từ dưới đến trên sân khấu
Lịch trình công cụ chứa tất cả các thông tin, hiển thị trên HOOK-UP, trừ trường hợp các cột chỉ đơn giản là theo một thứ tự khác nhau. Lịch trình này thường cho thấy các thông tin sau đây:
CHANNEL HOOK-UP |
DATE: 2005-12-31 |
||||||||
PRODUCTION: WAR & PEACE |
Page 1/x |
||||||||
POSITION |
UNIT# |
TYPE |
WATTS |
CH |
DIM. |
CIR |
PURPOSE |
ACCES. |
COLOR |
#1 Pipe |
-1 |
6" Fresnel |
1000 |
71 |
135 |
128 |
AREA 1 |
Doors |
R08 |
#1 Pipe |
-2 |
6" Fresnel |
1000 |
37 |
136 |
127 |
AREA 2 |
Doors |
R08 |
#1 Pipe |
-3 |
6" Fresnel |
1000 |
45 |
137 |
126 |
AREA 3 |
Doors |
R08 |
#1 Pipe |
-4 |
6" E.R.20deg. |
750 |
56 |
138 |
125 |
WINDOW R |
Gobo5 |
NC |
#1 Pipe |
-5 |
6" E.R.20deg. |
750 |
35 |
151 |
124 |
WINDOW C |
Gobo5 |
NC |
#1 Pipe |
-6 |
6" E.R.20deg. |
750 |
44 |
152 |
123 |
WINDOW L |
Gobo5 |
NC |
#1 Pipe |
-7 |
6" Fresnel |
1000 |
65 |
135 |
122 |
AREA 1 |
Doors |
R66 |
#1 Pipe |
-8 |
6" Fresnel |
1000 |
46 |
136 |
121 |
AREA 2 |
Doors |
R66 |
#1 Pipe |
-9 |
6" Fresnel |
1000 |
12 |
137 |
120 |
AREA 3 |
Doors |
R66 |
4.10 - BẢNG (SHEET) MAGIC
1.) BẢNG MAGIC
Mặc dù LỊCH TRÌNH CÔNG CỤ và HOOK-UP được xử dụng khá nhiểu, chúng được tạo ra chủ yếu chỉ để cho đội kỹ thuật kết nối chính xác tất cả các thiết bị. Ánh sáng sân khấu là một nghệ thuật cho thị giác và như vậy, người thiết kế ánh sáng phải tìm một cách để suy nghĩ trực quan hơn.
Có lẽ chỉ mới 25 năm trước đây, trong tiến trình, người thiết kế lưu giữ tất cả các số lượng thành phần “trực quan" của mình, với HOOK-UP. Lịch trình này thường chỉ là một danh sách dài những con số chi tiết về thiết bị, focus và màu sắc. Nó không thể nào cho thấy trực quan của những gì kết nối với mỗi channel. Thường thì người thiết kế có thể hình dung nhanh, “một wash xanh từ trái sân khấu”, nhưng sẽ mất 5 phút để tìm ra số thứ tự của channel, đặc biệt là nếu họ làm việc với hàng trăm channel. Không cần phải nói, tiến trình này có thể sẽ rất chậm trong thời điểm focus và cài đặt mức độ.
Một trong những năm gần đây, tiến trình thay đổi và BẢNG MAGIC ra đời. Khái niệm rất đơn giản nên đáng ngạc nhiên rằng nó đã không được phát triển trước từ lâu. Là một học viên cũ của Tom Skeleton, tôi đã học được những khái niệm từ ông ấy ở New York khoảng 1970, và đã xử dụng nó từ đó. Tôi tin cậy Tom và phát triển khái niệm, mặc dù những người khác cũng có thể không tin cậy một phương tiện tương tự như giới thiệu trực quan cho sơ đồ ánh sáng của họ.
Bảng magic thường là một tờ giấy (khoảng 8,5 "x 14") được chia thành 15 ô vuông (3 x 5). Nhiều ô vuông hơn (hay giấy) có thể cần cho một chương trình rất lớn. Mỗi ô vuông đại diện cho một nhóm hình ảnh của thiết bị. Điều này cho phép người thiết kế xác định vị trí các khu vực diễn xuất, ánh sáng phía trước, ánh sáng bên, ánh sáng hậu, v.v, rất nhanh chóng. Số channel được chỉ thị trong một vòng tròn. Số của mũi tên chỉ ra số lượng thiết bị và hướng của ánh sáng. Thường thì phải vẽ một bức tranh nhỏ về phông cảnh, để hiển thị focus chính xác của mỗi channel. Một phần BẢNG MAGIC như sau:
========================================================
| ACTING AREAS | ACTING AREAS | SIDE LIGHTS |
| (LIGHT AMBER #08) | (LIGHT BLUE #66) | (LIGHT PINK #44) |
| | | |
| ^ ^ ^ | ^ ^ ^ | |
| (4) (5) (6) US | (10) (11) (12) DS | (15)->> US <<-(16) |
| R C L | R C L | |
| ^ ^ ^ | ^ ^ ^ | |
| (1) (2) (3) DS | (7) (8) (9) DS | (13) -> DS <-(14) |
|-------------------------------- |---------------------------------|----------------------------- |
| BACK LIGHTING | CYCLORAMA | SPECIALS |
| (DARK BLUE #80) | | UR UC UL |
| | (21) RED Top | ^ ^ ^ |
| v(17)v | (22) GREEN " | (27) (28) (29) |
| v(18)v | (23) BLUE " | |
| v(19)v | (24) RED Bottom | DR DC DL |
| v(20)v | (25) BLUE " | ^ ^ ^ |
| | (26) GREEN " | (30) (31) (32) |
=======================================================
4 .11 - PHẦN FOCUS
1.) PHẦN FOCUS (ĐIỀU CHỈNH)
Người thiết kế ánh sáng có thể, phân tích, thảo luận, vẽ, quy hoạch và dự thảo vài ngày hay vài tuần để tạo ra sơ đồ ánh sáng, và các lịch trình có liên quan. Đó là trong thời gian focus. Tuy nhiên, người thiết kế ánh sáng sẽ thấy lần đầu nếu anh ta lựa chọn thiết bị phù hợp và vị trí lắp đặt thích hợp để đạt mục tiêu của mình.
Trong suốt thời gian focus, người thiết kế ánh sáng và đội kỹ thuật ánh sáng sẽ làm việc trong một nhà hát tối. Thông thường, một thợ điện sẽ vận hành bộ điều khiển ánh sáng, từ sân khấu hay từ phòng điều khiển. Người thiết kế thường sẽ đứng trên sân khấu và yêu cầu số channel, muốn nó khởi động. Tiếp theo, một thành viên đội kỹ thuật gần thiết bị nghe chỉ đạo bởi người thiết kế để nhắm hướng (focus) thiết bị thích hợp. Các thiết bị phải xoay dọc và ngang được, sau đó được “khóa” chắc bằng cờ lê. Kế tiếp là thực hiện điều chỉnh luồng sáng (kích thước, cạnh, phân phối, shutter và các gobo). Cuối cùng, gắn các bộ lọc màu thích hợp (và vật liệu phổ biến). Tiến trình này phải được lặp đi lặp lại cho từng thiết bị trong sơ đồ ánh sáng và có thể mất 1-5 phút cho mỗi thiết bị.
Thiết bị ánh sáng trong khán phòng có thể tới được bằng các bục gỗ cố định. Các thiết bị khác có thể xử dụng thang. Thiết bị trên sân khấu thường điều chỉnh từ một thang “khung-A-frame” hay thang có người giữ.
Trong khi focus, người thiết kế nói chung sẽ có một cảm giác về việc thiết kế ánh sáng của mình sẽ "hoạt động" hay không. Đặc biệt hơn, nếu người thiết kế không thực hiện quy hoạch thích hợp, họ có thể thấy thiết kế của họ có thể không hoạt động. Vì lý do này, khi focus thường khá căng thẳng. Người thiết kế thường sẽ đòi hỏi toàn bộ đội kỹ thuật ánh sáng thật tập trung để họ có thể làm việc hiệu quả nhất. Trong tình huống chuyên nghiệp, nhà sản xuất có thể yêu cầu ánh sáng phải focus xong trong 4-12 giờ (thường là trong 4 ca 4 giờ), tùy thuộc vào số lượng thiết bị, khả năng tiếp cận của họ, số lượng và tay nghề của đội kỹ thuật ánh sáng. Một thành viên đội kỹ thuật thông thường sẽ điều chỉnh trung bình 12-60 thiết bị mỗi giờ. Thường thì người thiết kế có thể gọi nhiều thợ điện điều chỉnh cùng lúc và không phải là bất thường khi xem một sơ đồ “rock and roll” 400 thiết bị, focus trong 4 giờ, với một đội kỹ thuật ánh sáng có kinh nghiệm.
Trách nhiệm chủ yếu của người thiết kế ánh sáng là phải chắc chắn rằng tất cả các thiết bị thấy trên sơ đồ ánh sáng có thể focus xong trong thời gian quy định. Người thiết kế sẽ bị cho là vô trách nhiệm khi treo lắp thiết bị không nhanh chóng và an toàn trong khi focus. Người thiết kế phải có khả năng ước tính thời gian focus thực tế theo yêu cầu của mình và sự phức tạp của sơ đồ ánh sáng phải chứng tỏ được điều này liên quan đến số lượng và khả năng tiếp cận với thiết bị
Trong thời điểm focus, người thiết kế ánh sáng (hay trợ lý LD) sẽ chứng minh mục đích của mỗi thiết bị, rất cần thiết để bảo đảm tính toàn vẹn của thiết kế hay cho sự thay đổi sắp tới của chương trình.
4.12 - PHẦN MỨC ĐỘ (LEVEL SESSION)
1.) PHẦN MỨC ĐỘ
Một khi tất cả các thiết bị ánh sáng đã được gán đến các dimmers, và đã focus riêng từng cái, đó là thời điểm để người thiết kế để xây dựng “hình ảnh” ánh sáng. Đây là phần MỨC ĐỘ hay thiết lập CUE.
Thông thường người thiết kế ánh sáng có thể chỉ 4-8 giờ để thiết lập tất cả các “CUE” ánh sáng cho một chương trình, và đưa vào bộ nhớ hệ thống. Có thể chỉ có 12 cue hay 200 cue cho một chương trình lớn.
Người thiết kế ánh sáng, thông thường sẽ phụ trách phần này. Đạo diễn, quản lý sân khấu và người thiết kế khác thường cũng có mặt. Thông thường bộ phận này sẽ tập hợp quanh bàn chương trình trong góc tối khán phòng, như con bướm đêm bay quanh ánh sáng.
Người thiết kế ánh sáng sẽ làm việc thông qua việc hiển thị theo thứ tự, từ ánh sáng đầu tiên chiếu xuống, đến ánh sáng cuối cùng chiếu lên. Họ sẽ xây dựng từng góc nhìn ánh sáng, từng channel một và sau đó khi hoàn tất, sẽ đợi sự chấp thuận của đạo diễn và người thiết kế khác. Sau khi tìm được phê duyệt, ghi trên một bảng “cue" hay ghi lại trong "bộ nhớ", bởi thợ điện trưởng. Nói chung tất cả các thay đổi về ánh sáng sẽ tạo ra một SỐ (NUMBER) CUE, (thường là theo thứ tự-sequence) và THỜI GIAN để nó có thể một chỗ trong kịch bản của đạo diễn sân khấu.
Người thiết kế ánh sáng thường bị áp lực rất lớn để chứng minh cho những người khác (và mình) rằng họ có thể tạo ra ánh sáng thích hợp và tự tin vào nó. Thông thường các thiết lập sân khấu sẽ không hoàn tất ngay. Đạo cụ, đồ nội thất, màn cửa, thảm có thể bị thiếu, các thiết lập hay sàn nhà có thể không được sơn đầy đủ và sẽ thiếu hụt một số diễn viên. Bất kỳ yếu tố thiếu hụt nào cũng có thể làm công việc của người thiết kế ánh sáng thêm phần khó khăn, nếu họ, đạo diễn hay các người thiết kế khác có thể không hình dung được kết quả cuối cùng khi thiết lập xong và các diễn viên vào đúng chỗ. Vì lý do này, tốt nhất là đòi hỏi bất cứ khi nào có thể là Phần Mức độ không diễn ra, cho đến khi xong hoàn toàn việc thiết lập, sơn và mặc y trang.
Người thiết kế này đã kinh nghiệm từ nhiều năm trước rằng sẽ lãng phí thời gian cố gắng vô nghĩa để tinh chỉnh một scene ánh sáng, mà chưa hoàn thành xong thiết lập và các diễn viên trên sân khấu có mặt đầy đủ. Ánh sáng PHẢI được nhìn thấy trong bối cảnh với sự yên tâm là đã hoàn toàn hiểu thấu và đánh giá cao chương trình. Tôi đã mệt mỏi với nhiều chương trình, vẽ ra cường độ sáng của một bức tường màu trắng cho có một mức độ thấp nhất, nhưng rồi cũng vẽ nó lại sau vai ngày vì giấy tường cuối cùng cũng đã đến.
Mặc dù các diễn viên ít khi hiện diện trong phần này, một “walker” rất có giá trị, họ thường mặc quần áo có tông màu trang phục điển hình. Walker, sẽ di chuyển theo chỉ dẫn, xuyên qua sự che lấp của các diễn viên, cho phép các đạo diễn và người thiết kế kiểm tra mức độ ánh sáng trên “khuôn mặt", bất cứ nơi nào trên sân khấu. Nói chung người thiết kế ánh sáng phải làm việc một cách nhanh và với sự tự tin. Mặc dù họ không nên vội vàng chờ đạo diễn phê duyệt của một scene ánh sáng cụ thể, họ nên làm điều tốt nhất của mình là tích cực, nhắc nhở nếu ông ta đang nhìn ngoài bối cảnh, và mô tả bất kỳ giải pháp có thể để có bất kỳ mối quan tâm nào.
4.13 - BẢNG CUE
1.) BẢNG CUE ÁNH SÁNG
Trong phần mức độ, mỗi scene ánh sáng được xây dựng cẩn thận, dimmer từng chút một. Nó có thể mất thời gian từ một phút đến hơn một giờ để cân bằng toàn bộ mỗi “cue” hay scene. bắt buộc rằng thông tin này đã chứng minh cho một số lý do. BẢNG CUE là dẫn chứng bằng văn bản của mỗi cue ánh sáng. Thông thường nó bao gồm nhiều cột cho mỗi số đimmer (hay channel), trên đầu trang. Từng Cue cho ra một CON SỐ và THỜI GIAN, và sau đó các thông tin mức độ rõ ràng bằng văn bản, bên dưới là những số channel tương ứng. Một khu vực cần được trang bị cho sự VẬN HÀNH (OPERATION).
Bảng CUE cần thiết vì hai lý do. Đầu tiên, nếu bộ điều khiển ánh sáng là một hệ thống bằng tay (không có bộ nhớ điện tử), nó chỉ là dữ liệu của ánh sáng. Thứ hai, ngay cả khi bộ điều khiển ánh sáng có bộ nhớ điện tử, cũng nên giữ lại dữ liệu của mỗi cue ánh sáng vì lý do là để sao lưu và độ an toàn. Hãy nhớ rằng, người thiết kế dành thời gian khá lớn để cân bằng ánh sáng cho đạo diễn và phê duyệt riêng của mình. Sẽ hoàn toàn vô trách nhiệm nếu không có dữ liệu của phần này, bởi vì đối với bất kỳ lý do nào, bộ điều khiển hệ thống ánh sáng, “mất bộ nhớ”. Sẽ mất nhiều thời gian để viết lại bảng Cue bằng tay, đặc biệt là đối với một chương trình với hơn 100 channel. Thường thì nhiệm vụ làm văn bản Cue Sheets có thể giao cho trợ lý thiết kế ánh sáng (như một hình thức sám hối).
Gần đây, bộ điều khiển có máy tính hỗ trợ đã trở thành phổ biến rộng rãi và hiện nay được coi là chuẩn mực. Hầu hết các hệ thống cũng đi kèm với một máy in. Điều này có nghĩa là mỗi cue giờ đây có thể được ghi và in lại cùng một lúc, do đó luôn luôn duy trì một “hardcopy” của mỗi cue.
Trong buổi diễn tập ánh sáng tiếp theo, người thiết kế có thể yêu cầu bản in của tất cả các cue, sau một buổi diễn tập cụ thể, một lần nữa cho các mục đích sao lưu và an toàn, nếu bộ điều khiển ánh sáng “treo”, nó có thể cần thiết để tự làm lại tất cả các cue và mức độ thông tin, vào một hệ thống mới. Điều này có thể là một tiến trình tẻ nhạt, nhưng ít nhất nó có thể làm được nếu có ghi chép hardcopy. Nếu không có nó, tất cả các thời giờ trải qua tại phần cue ánh sáng, và buổi diễn tập tiếp theo, đã bị lãng phí.
Một bản in cuối cùng sẽ được thực hiện ngay trước khi mở màn (hay khi thiết kế chắc chắn rằng không còn thay đổi nào nữa). Các bản in cuối cùng nên được giữ lại bởi nhà sản xuất (nhà hát) và người thiết kế, trong thời điểm chạy chương trình. Nếu chương trình có hình thức chuyển nhượng, tour lưu diễn, bản in Cue Sheet sẽ được xử dụng làm cơ sở để tái tạo lại chương trình ánh sáng.
2) BẢNG CUE TIÊU BIỂU
Channel |
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
Q17 T5 |
80 |
75 |
80 |
45 |
75 |
00 |
45 |
45 |
00 |
60 |
60 |
80 |
30 |
20 |
65 |
Q18 T8 |
0v |
75 |
75 |
80 |
50^ |
50^ |
45 |
45 |
45^ |
60 |
30v |
60v |
30 |
20 |
65 |
(xem tiếp Phần 5 / 7: Thiết bị ánh sáng sân khấu......)