3.08 - THIẾT KẾ ÁNH SÁNG NGOÀI TRỜI (OUTDOOR)
1.) ÁNH SÁNG NGOÀI TRỜI
Ánh sáng cho sân khấu ngoài trời bao gồm cả không gian mở hay mở một nửa. Chương trình có thể bao gồm kịch drama, thi sắc đẹp (pageant), nhạc kịch, múa, hòa nhạc, show rock, lễ hội, diễu hành, và nhiều loại khác hay các sự kiện sân khấu. Các phương tiện ngoài trời có thể thay đổi từ một khu vực mở, một nửa sân vận động, đến một phương tiện nhà hát hay âm nhạc xây dựng đặc biệt. Thông thường, sân khấu được bao quanh hay được che phủ nhưng khán giả thì không có gì. Đôi khi chỉ cần đảo ngược là đúng.
Các phương tiện ngoài trời được định hướng để ánh nắng mặt trời chiếu sáng sân khấu, hướng từ phía sau khán giả. Điều này thường tạo ra khả năng hiển thị tối đa và giữ cho tầm nhìn trực tiếp của ánh nắng mặt trời từ phía khán giả. Phương tiện tinh vi hơn sẽ kèm theo sân khấu với một “stagehouse”, một số cung cấp đầy đủ phương tiện “bay-flying”. Thường thì sự kiện ngoài trời đều “hẹn giờ-timed” để bắt đầu vào buổi tối trước khi mặt trời lặn, và kết thúc trong bóng tối của ban đêm.
Một trong khái niệm cơ bản mà người thiết kế ánh sáng làm việc trên một sân khấu ngoài trời phải học là: “Thật không dễ cạnh tranh với mẹ thiên nhiên”. Ánh sáng sân khấu trong một ngày nắng sáng là hầu như không cần và không có tác động. Ánh sáng sân khấu trong một ngày có mây hay u ám có thể có một số tác động, nhưng thường tốt nhất là chỉ cung cấp ánh sáng cơ bản. Suốt ngày, người thiết kế có thể cần phải cung cấp hàng trăm kW ánh sáng đến chỗ cần đôi khi chỉ là một đối tượng nhỏ trên sân khấu. Ánh sáng chỉ có thể để lấp đầy trong bóng tối là tốt nhất. Nếu đột nhiên một đám mây đi qua mặt trời, mức độ ánh sáng sân khấu dường như tăng lên đáng kể.Tuy nhiên, khi mặt trời đã bắt đầu lặn, một thiết bị chỉ cần 1 kilowatt là có thể tạo sáng hơn với khán giả hơn hàng trăm KW trước đây yêu cầu cung cấp cho đối tượng cùng một hình ảnh.
Tôi thường xuyên thiết kế ánh sáng sân khấu âm nhạc chuyên nghiệp ngoài trời lớn nhất của Canada – Sân khấu cầu vồng (sân khấu bao bọc). Cơ sở này nằm trong một trong những công viên lớn nhất và đẹp nhất của Winnipeg, không xa trung tâm thành phố. Cơ sở 2.500 chỗ ngồi được bao phủ bằng một mái vòm đường kính 200 feet, và quang cảnh cây cỏ, bên dưới. Xuất diễn 1 thường bắt đầu lúc 8:00 pm và đòi hỏi gần như tất cả ánh sáng phải ĐẦY ĐỦ do mức độ ánh sáng ban ngày của môi trường chung quanh khá cao trong khán phòng và ánh sáng đèn hầu như không được chú ý đến. Chậm - nhưng đều đặn, mặt trời bắt đầu lặn, ánh sáng trở nên đáng chú ý hơn. Phải cần thực hiện các thao tác điều chỉnh liên tục để bù đắp cho ánh sáng ban ngày của môi trường chung quanh đã bắt đầu tối. Thời điểm mặt trời đã lặn hẳn, lúc nàu chỉ cần ánh sáng ít hơn nhiều để cung cấp cho đối tượng, so với vài phút trước đó.
Sự kiện ngoài trời thường liên quan đến các địa điểm rộng với khán giả nhiều. Về mặt này thiết bị ánh sáng sân khấu được xử dụng mạnh và hiệu quả nhất. Thiết bị PAR 64 1000 watt là một sự lựa chọn phổ biến cho các ứng dụng ánh sáng ngoài trời, do kích thước nhỏ gọn, trọng lượng nhẹ và hiệu quả cao. Thiết bị H.I.D. (high intensity discharge) cũng được xử dụng, với bộ đổi màu tự động và dimmers. Followspots công suất cao cũng khá phổ biến cho các sự kiện ngoài trời.
3.09 - THIẾT KẾ ÁNH SÁNG TRƯNG BÀY (DISPLAY)
1.) ÁNH SÁNG TRƯNG BÀY
Ánh sáng trưng bày bao gồm tất cả các ánh sáng cho việc buôn bán thương mại, bao gồm chiếu sáng cho cửa sổ các cửa hàng và vật trưng bày trong cửa hàng. Phương pháp này được thảo luận ở đây vì có những cá nhân có thể thực hành ánh sáng trưng bày nhiều hơn so với chiếu sáng sân khấu, chỉ có điều họ hầu hết không biết điều đó.
Người thiết kế ánh sáng trưng bày thường không phải là người thiết kế ánh sáng, họ chỉ đơn giản là người "làm ra ánh sáng-does the lights". Về khía cạnh rèn luyện, mục tiêu và cách tiếp cận có khác nhau đáng kể. Ánh sáng trưng bày thường được thực hiện bởi người “trưng bày gian hàng-display department” của cửa hàng bách hóa lớn hay của các thành viên của đội ngũ bán hàng, và về mặt này không có tiêu chuẩn cụ thể.
Thế giới của ánh sáng trưng bày và ánh sáng sân khấu là cả hai hoàn toàn khác nhau nhưng lại hoàn toàn tương tự. Hiếm khi có sự khác nhau trong thiết kế ánh sáng sân khấu và ánh sáng trưng bày, nếu liên hệ chúng với nhau. Ánh sáng gian hàng trưng bày và ánh sáng sân khấu khá tương tự, trong đó hầu hết các mục tiêu và phương pháp đều giống nhau. Sự khác biệt cơ bản duy nhất là quy mô nhỏ hơn và thiết bị có công suất thấp hơn, thường xuyên gặp phải trong lĩnh vực ánh sáng trưng bày.
Các mục tiêu tương tự như các mục tiêu của ánh sáng sân khấu trong ánh sáng trưng bày là phải tạo ra tầm nhìn, tâm trạng, quan tâm, tác động và nó phải truyền đạt được một cái gì đó - ngay cả khi khái niệm này chỉ là để bán hàng.
2) ÁNH SÁNG TRƯNG BÀY - KỸ THUẬT
Khoảng cách chiếu sáng khác nhau, từ 6-20 feet - ngắn hơn so với khoảng cách thường dùng trong các ứng dụng ánh sáng sân khấu. Vì lý do này, ánh sáng làm cho việc trưng bày xử dụng các thiết bị có góc chiếu tương đối rộng.
Thiết bị ánh sáng cho trưng bày thường nhỏ và chắc gọn hơn so với các thiết bị nhà hát. Thiết bị trưng bày điển hình bao gồm “ellipsoidal reflector” 3,5", Fresnel 3" và một số thiết bị trưng bày đặc biệt. Thiết bị trưng bày đặc biệt bao gồm cả hai loại: điện áp nhà đèn (120/240) và điện áp thấp của 'R' (chóa) và đèn “PAR”, gắn vào vỏ bao nhỏ. Pinspot cũng khá phổ biến. Công suất tiêu biểu của đèn trưng bày dao động từ khoảng 100-300 watt.
“Ánh sáng-rọi theo-track lighting” thường được dùng cho cửa sổ trưng bày và ánh sáng trưng bày trong cửa hàng thông thường. Một số thiết bị khác nhau có sẵn rất đơn giản, chỉ cấn “bẻ-clip” để rọi theo, vì vậy ánh sáng có thể thay đổi nhanh chóng như những thay đổi của vật trưng bày. Hãy chắc chắn rằng dùng bất cứ thiết bị nào mà nó có thể dùng thêm một phụ kiện lọc màu. Hầu hết đều không có.
3.10 – ÁNH SÁNG TRUYỀN HÌNH (TV) & VIDEO
1.) ÁNH SÁNG TRUYỀN HÌNH
Ánh sáng cho truyền hình bao gồm truyền hình thương mại và mạch kín (closed circuit), các chương trình video chuyên nghiệp - hay phát sóng trực tiếp & ghi lại (recording). Phương pháp thiết kế ánh sáng truyền hình cuối cùng được sinh ra từ việc thực hành kết hợp ánh sáng của sân khấu và nhiếp ảnh. Hiện nay, ước tính trên toàn thế giới có những thiết kế thực sự làm việc trong các lĩnh vực ánh sáng video và truyền hình, hơn bất cứ bộ môn ánh sáng nào khác. Các người thiết kế truyền hình được biết đến như ĐẠO DIỄN ÁNH SÁNG (LIGHTING DIRECTOR)
Cả hai loại, thiết kế ánh sáng truyền hình lẫn sân khấu có thể được coi là một hình thức nghệ thuật, ít nhất cũng là trợ thủ đắc lực. Trong khi các người thiết kế sân khấu quan tâm nhất với mắt của khán giả phản ứng với ánh sáng, thiết kế ánh sáng truyền hình quan tâm nhiều hơn với việc camera phản ứng ra sao với ánh sáng.
Thủa sơ khai của truyền hình, camera đen trắng đầu tiên có nhu cầu ánh sáng khoảng 250 foot-candle hay nhiều hơn. Khi camera màu ra đời, thường yêu cầu có ánh sáng nhiều hơn. Trong những thập kỷ vừa qua, lượng ánh sáng cần thiết cho tín hiệu hình ảnh tốt đã giảm đều đặn, cũng như công nghệ camera truyền hình đã được cải thiện. Hiện nay tuy chưa phổ biến, các camera màu nghệ thuật đòi hỏi ít hơn 50 f.c
Người thiết kế ánh sáng truyền hình không chỉ quan tâm đến độ sáng (footcandles), họ cũng quan tâm đến chất lượng của ánh sáng, cũng giống như là người thiết kế ánh sáng sân khấu.
Người thiết kế ánh sáng truyền hình cũng quan tâm với nhiệt độ màu và độ tương phản (tương phản giữa người biểu diễn và các thiết lập chung quanh hay bối cảnh nền-background). Trong thực tế, người thiết kế ánh sáng truyền hình quan tâm nhiều hơn về độ tương phản (contract), hay cụ thể là sự khác biệt về độ tương phản, ở khắp mọi nơi trên toàn lĩnh vực hình ảnh. Điều này thực tế là do camera truyền hình ghi nhận một phạm vi tương phản ít hơn nhiều so với mắt người. Mặc dù mắt người có thể điều chỉnh độ tương phản trong các lĩnh vực của tầm nhìn có tỷ lệ 100.000:1, camera truyền hình chỉ có thể xử lý trong phạm vi tương phản 100:1, là cao nhất.
Kỹ thuật ánh sáng truyền hình cũng cần cung cấp một mức độ quan tâm hay cân bằng hình ảnh thị giác. Thông thường, người thiết kế truyền hình sẽ tạo ra một ánh sáng hướng mạnh KEY LIGHT đến một nghệ sĩ biểu diễn từ một bên và một ánh sáng nhẹ nhàng hơn FILL LIGHT ít dữ dội, ở một góc khoảng 90 độ ánh sáng KEY. Tiếp theo, một ánh sáng BACK thường được dùng để giúp đỡ trực quan biểu diễn riêng biệt từ phía sau. Như trong nhà hát, một lần người biểu diễn được chiếu sáng cho khả năng hiển thị (hay tín hiệu, thích hợp với TV), nền (background) và khung cảnh (surrounding) chung quanh được chiếu sáng để cân bằng thị giác, (BASE LIGHT).
Thiết bị ánh sáng TV tương tự như thiết bị sân khấu ngoại trừ nó thường lớn và có công suất cao hơn. Các đèn Fresnel 2,5 và 10 Kw thường được xử dụng cho ánh sáng KEY, và BACK. Thiết bị khác bao gồm SCOOP và FLOOD thường được xử dụng để làm đầy ánh sáng nền. Hầu hết các thiết bị TV được thiết kế để lấy tiêu điểm và điều chỉnh từ sàn studio bằng cách xử dụng một “long pole".
3.11 - ÁNH SÁNG PHOTO và NHIẾP ẢNH
1.) ÁNH SÁNG NHIẾP ẢNH
Ánh sáng nhiếp ảnh chỉ là một hình thức nghệ thuật như là thiết kế ánh sáng sân khấu. Nói chung, không có tên gọi như là người thiết kế ánh sáng “chụp ảnh”. Nhiếp ảnh gia thường làm ánh sáng cho riêng mình và như vậy, họ có trách nhiệm về tất cả các yếu tố nghệ thuật của hình ảnh, bao gồm cả ánh sáng, độ tương phản, cân bằng, bố cục, phong cách, ấn tượng, tâm trạng, v.v
Các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp phải biết các thuộc tính của bộ phim của mình liên quan đến độ lộ sáng (exposure), độ bão hòa (saturation) và độ tương phản (contract) thích hợp. Mặc dù mắt người có thể điều chỉnh một trong phạm vi rộng “độ sáng-brightness), tất cả cùng một lúc trong lĩnh vực thị giác, máy ảnh và phim có thể không làm được. Độ tương phản bị giới hạn, có lẽ không quá 3:01 đối với một số loại phim.
Đôi khi các người thiết kế ánh sáng sân khấu sẽ có mặt trong tiến trình sản xuất để làm việc với một nhiếp ảnh gia, làm phim tài liệu hay cảnh chụp quan hệ công cộng của tác phẩm. Người thiết kế có thể giúp các nhiếp ảnh gia bằng cách bảo đảm rằng có ánh sáng đáng quan tấm ở nơi cần thiết. Ngoài ra, nền phong cảnh và cycloramas hiện ra đầy đủ ánh sáng cho mắt, có thể xảy ra màu tối, xám xịt và thiếu sáng cho phim.Thêm ánh sáng bổ sung cho những yếu tố này là cần thiết để giảm chủ đề về tương phản của phông nền (background).
Thông thường nhiếp ảnh gia cho nhà hát sẽ xử dụng máy tốc độ cao, phim đen trắng hay màu. Phim dương bản (slide) vẫn còn được ưa thích bởi hầu hết các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp, đối với phim màu, độ bão hòa màu sắc cao hơn và do thực tế rằng họ "tái tạo-reproduce” tốt hơn làm bản in, cho hầu hết các ứng dụng.
2) ÁNH SÁNG NHIẾP ẢNH - KỸ THUẬT
Ánh sáng tự nhiên và ánh sáng studio, cả hai thường được xử dụng cho các ứng dụng ánh sáng chụp ảnh. Ánh sáng studio là thường dựa trên gốc cơ bản của McCandless. Hai đèn chiếu sáng được đặt ở mức 45 độ với nhau, ở phía trước của đối tượng. Thường thì loại ánh sáng sáng hơn (KEY LIGHT) được dùng để cung cấp một cảm giác có định hướng và động lực. Ánh sáng khác (FILL LIGHT), có cường độ hơi thấp hơn và "mềm hơn", được xử dụng để lấp đầy chỗ tối tạo ra bởi ánh sáng chính. Và ánh sáng “nghịch-back” với chủ đề, giúp cô lập các đối tượng từ phía sau. Ánh sáng bổ sung sau đó chiếu sáng cho background khi cần thiết.
Có rất nhiều kỹ thuật ánh sáng nhiếp ảnh thể hiện trong nhiều sách về nhiếp ảnh. Một trong những kỹ thuật yêu thích của tôi là như sau: Để chụp ảnh một căn phòng rất lớn, (nhà thờ, giảng đường, v.v) với ánh sáng bị thiếu, làm như sau: Chọn một tốc độ và độ nhạy phim sao cho phép có thể lộ sáng 3-5 phút. Sau đó, mở ống kính và đi khắp gian phòng với đèn flood 1000 watt, “sơn” đồng đều tất cả các bề mặt. Tất cả các bề mặt trong hình ảnh này sẽ được lộ sáng, và "thợ sơn ánh sáng" sẽ vô hình, không lộ diện nếu họ đã di chuyển đủ nhanh. Đơn giản chỉ cần “sơn” nhiều ánh sáng hơn ở bề mặt tối hơn hay chi tiết cần bổ sung. Bắt buộc phải có nhiều lần thử nghiệm với tiến trình này.
3.12 – ÁNH SÁNG PHIM VÀ ẢNH ĐỘNG (MOTION PICTURE)
1.) ÁNH SÁNG FILM
Ánh sáng cho phim là một hình thức nghệ thuật trong chính nó. Chỉ cần chứng kiến, nhiều tác phẩm điện ảnh tốt (và không tốt) trong những thập kỷ qua. Ngoài ra, phim là một phương tiện tuyệt vời và có giá trị để nắm bắt và sau đó nghiên cứu ánh sáng và kỹ thuật ánh sáng.
Ánh sáng cho phim là một cuộc hôn nhân giữa cameraman, bộ phim của mình và phòng lab. Kỹ thuật ánh sáng cho phim phụ thuộc nhiều vào kiến thức để đánh giá từng bộ phim sẽ phản ứng với từng loại ánh sáng về cường độ (intensity), độ tương phản (contract) và độ màu như thế nào. Một trong nhiều phẩm chất hình ảnh có sẵn là cách thao tác, độ lộ sáng, độ màu và xử lý phim.
2) ÁNH SÁNG FILM - KỸ THUẬT
Cả hai: ánh sáng ban ngày lẫn các nguồn sáng nhân tạo đều được xử dụng cho ánh sáng phim.
Thiết bị ánh sáng cho ngành công nghiệp điện ảnh tương tự như thiết bị ánh sáng sân khấu, ngoại trừ chúng lớn hơn và có công suất cao hơn. Mặc dù vẫn dùng thiết bị đốt tim, thiết bị mới xử dụng nguồn H.I.D, bây giờ cũng thường được xử dụng.
Đèn Fresnel, Flood mặt mở (mở rộng) và “9 light” là tất cả các thiết bị ánh sáng phim phổ biến. Thiết bị “9 light”, bao gồm 9 bóng đèn PAR gắn kết trong một ma trận 3 x 3. Điều này cung cấp một “nguồn kích cỡ lớn”, và rất tuyệt vời cho ánh sáng “key” hay ánh sáng động lực.
Nhiệt độ màu và cân bằng màu rất quan trọng trong ánh sáng phim. Thông thường các nguồn sẽ được cân bằng bằng cách xử dụng các bộ lọc hiệu chỉnh màu sắc, qua riêng mỗi thiết bị, hay chính trên ống kính của camera.
Ánh sáng phim xử dụng rất nhiều các thiết bị phản chiếu (với nhiều loại bề mặt khác nhau) để thu nhận và phản chiếu ánh sáng và “lấp đầy-fill” chỗ bị tối.
Thiết bị ánh sáng thường được gắn cao qua đầu, trên chân đứng hay trên xe tải. Khi máy phát điện lớn “vào chỗ-on location”, “hàng dặm-miles” dây cable điện được xử dụng để cung cấp năng lượng cho các thiết bị.
3.13 – ÁNH SÁNG BẢO TÀNG VÀ PHÒNG TRƯNG BÀY NGHỆ THUẬT (MUSEUM & ART GALLERY)
1.) ÁNH SÁNG BẢO TÀNG VÀ PHÒNG TRƯNG BÀY NGHỆ THUẬT
Ánh sáng cho các bảo tàng và phòng trưng bày luôn luôn là một thách thức. Thường xuyên làm việc này là chính các nhân viên viện bảo tàng. Mặt khác, một người thiết kế ánh sáng sân khấu hay chuyên gia ánh sáng khác có thể được tham gia để cung cấp sự hỗ trợ.
Ánh sáng của các đối tượng của nghệ thuật phải được tiếp cận với sự chăm sóc. Cũng nên biết rằng những tác động có hại từ bức xạ hồng ngoại và tia cực tím có thể thường xuyên gây thiệt hại gần như bất kỳ đối tượng nào, tùy thuộc vào mức độ phơi nhiễm.
Mặc dù các bảo tàng hay người thiết kế ánh sáng phòng trưng bày có thể muốn ánh sáng cho sự quan tâm, chú ý và khả năng hiển thị, quan tâm đầu tiên của họ phải là bảo quản được hiện vật quý và các đồ tạo tác. Trong khía cạnh này, các nhân viên phụ trách của viện bảo tàng hay phòng trưng bày thường xuyên sẽ áp đặt sự hạn chế ánh sáng rất nghiêm ngặt đối với từng bề mặt trực diện hay phòng.
Ngay cả ngày nay cũng có những tiêu chuẩn cho thấy những mức độ tiếp xúc an toàn với tia hồng ngoại và tia cực tím cho các đối tượng quý hiếm này. Nhiều người quản lý giả thuyết là không. Các nghiên cứu khác cho phép mức độ của ánh sáng khác nhau (footcandles hay lux) dựa trên vật liệu, xây dựng, điều kiện và quý hiếm của đối tượng – so với các thuộc tính cụ thể của nguồn ánh sáng được xử dụng. Không cần phải nói, ánh sáng cho các hiện vật quý phải được xem xét rất cẩn thận.
Chúng ta đã biết rằng những tác động có hại của bức xạ cực tím và hồng ngoại vẫn được tích lũy. Đó là, độ phơi nhiễm dài (thời gian) sẽ lớn hơn những thiệt hại.
Trong trường hợp có liên quan đến ánh sáng tự nhiên, không nên để ánh sáng mặt trời rọi trực tiếp vào các hiện vật nhạy cảm, bao gồm tranh vẽ, bản vẽ, đồ họa in, thảm trang trí, ... Các hiện vật này có thể bị hư hỏng do nhiệt (IR) và tẩy trắng bởi tia cực tím. Ánh sáng tự nhiên mức độ cao gián tiếp, nói chung cũng nên tránh, ngoại trừ cho các hiện vật chắc chắn và bền hơn. Trong trường hợp cần thiết, để hạn chế những tác động có hại từ một hệ thống chiếu sáng nhân tạo, người thiết kế trước hết phải chọn một nguồn thấp trong cả hai loại: bức xạ hồng ngoại lẫn tia cực tím. Nguồn nóng sáng thường là nguồn của sự lựa chọn. Tuy nhiên, tia sáng của thiết bị ánh sáng chiếu hiện vật thông thường, thường có một chùm tia nóng có thể được phát hiện dễ dàng với bàn tay của một người ở một khoảng cách một vài feet. Điều này đặc biệt đúng với một số loại đèn PAR, R và MR. Nhiệt đến một đối tượng có thể được hạn chế bằng cách tăng khoảng cách chiếu sáng nhưng cũng mất một số ánh sáng tương ứng. Cách khác, có thể xử dụng đèn lưỡng sắc đặc biệt có thể loại bỏ các thành phần hồng ngoại từ các chùm tia ánh sáng đi qua bức xạ này thông qua chóa phản chiếu ở phía sau của đèn.
Bức xạ cực tím từ thiết bị đốt tim hiếm khi có vấn đề như tia cực tím ít tồn tại vì đã bị “lọc ra” khỏi chùm ánh sáng bởi ống kính trong suốt của đèn. Một số nguồn halogen vonfram có thể sản xuất mức độ tia cực tím cao hơn (và khó chịu), tuy nhiên các nguồn này có thể bị lọc với một bộ lọc ngăn chặn tia cực tím có sẵn từ hầu hết các nhà cung cấp thiết bị sân khấu.
3.14 - THIẾT KẾ ÁNH SÁNG KIẾN TRÚC (ARCHITECTURAL)
1.) ÁNH SÁNG KIẾN TRÚC
Gián tiếp liên quan đến thiết kế ánh sáng sân khấu, thiết kế ánh sáng kiến trúc là một lĩnh vực tương đối mới, trở thành phổ biến từ năm 1970. Thiết kế ánh sáng kiến trúc đề cập đến kế hoạch chiếu sáng cho cả hai: nội thất lẫn không gian bên ngoài. Xem thêm: Ánh sáng cảnh quan.
Thông thường, đối với hầu hết các tòa nhà building (thương mại và công nghiệp) "chiếu sáng" theo quy định của các KỸ SƯ ĐIỆN (ELECTRICAl ENGINEER). Người tư vấn này thường chịu trách nhiệm tổng quát về các hệ thống điện, phân phối điện năng, hệ thống âm thanh, hệ thống báo cháy và ánh sáng. Thỉnh thoảng, một KỸ SƯ CHIẾU SÁNG (ILLUMINATING ENGINEER) có thể chỉ định việc chiếu sáng. Thông thường khi các kỹ sư chỉ định một hệ thống chiếu sáng, họ quan tâm nhất việc cung cấp sự chiếu sáng thích hợp cho các việc làm liên quan đến công việc cụ thể.
Thiết kế ánh sáng là một nhiệm vụ bổ sung khá mới với đội ngũ kiến trúc. Mặc dù thường không phải là một kỹ sư, chuyên gia tư vấn này sẽ chỉ định tất cả các loại ánh sáng và tiêu chuẩn chiếu sáng. Họ sẽ làm việc trực tiếp với các chuyên gia tư vấn khác (kiến trúc, cấu trúc, cơ khí và điện) để bảo đảm rằng hệ thống chiếu sáng được thiết kế, thật chi tiết và có sức thu hút.
Ánh sáng kiến trúc chiếu sáng xa nhiều hơn. Người thiết kế ánh sáng kiến trúc có thể quan tâm sao cho chiếu sáng các tòa nhà và không gian thật đúng. Họ có thể quan tâm đến mức độ, hiệu quả xử dụng và an toàn ánh sáng. Tuy nhiên, người thiết kế ánh sáng kiến trúc cũng nên quan tâm rất nhiều đến hiệu suất và ảnh hưởng tốt lành của con người, trong một không gian kiến trúc. Thiết kế chiếu sáng tốt luôn luôn làm việc hướng tới sự giải quyết các tiêu chí cụ thể. Ánh sáng kiến trúc có thể cung cấp “nhìn thấy được-see-ability” cơ bản cho các nhiệm vụ cụ thể, hay có thể hỗ trợ về hiệu ứng, thẩm mỹ, tiện nghi, an toàn, sức khỏe, và tốt lành.
Người thiết kế ánh sáng kiến trúc phải hiểu biết đầy đủ cả hai: tính chất vật lý của ánh sáng lẫn các hiệu ứng tâm lý của ánh sáng. Họ cũng phải thành thạo với tiến trình thiết kế và xây dựng kiến trúc và phải có khả năng để thiết kế có trách nhiệm trong phạm vi ngân sách.
2) ÁNH SÁNG KIẾN TRÚC - KỸ THUẬT
Có hàng trăm hãng sản xuất trên thế giới chuyên sản xuất thiết bị ánh sáng kiến trúc. Thiết bị có tất cả các loại hình, hình dạng và kích cỡ. Nghĩa đen, tồn tại hàng ngàn thiết bị khác nhau, cho những ứng dụng khác nhau. Thiết bị có thể xử dụng đèn đốt tim, đèn huỳnh quang. Nguồn H.I.D. thường được xử dụng nếu có thể vì nó được đánh giá cao về tính hiệu quả và có độ bền rất dài.
Thiết bị ánh sáng sân khấu hiếm khi dùng cho ánh sáng kiến trúc. Thiết bị sân khấu xử dụng bóng đèn loại “photo'” với tuổi thọ tương đối thấp, và thiết bị không được thiết kế để hoạt động liên tục.
Ánh sáng kiến trúc (như ánh sáng sân khấu) xử dụng sự kết hợp giữa kỹ thuật đèn flood và spotlight. Thiết bị thường được bố trí đèn chiếu xuống (downlight), tuy nhiên một số ứng dụng có thể yêu cầu chiếu lên (uplighting) hay chiếu cạnh (side lighting) cho ra hiệu ứng rất lớn.
3.15 THIẾT KẾ ÁNH SÁNG CẢNH QUAN (LANDSCAPE)
1.) ÁNH SÁNG CẢNH QUAN
Nghệ thuật của ánh sáng cảnh quan thường kết hợp với lĩnh vực thiết kế ánh sáng kiến trúc. Các lĩnh vực chiếu sáng cảnh quan cũng liên quan chặt chẽ với loại hình kiến trúc đặc biệt tương đối mới, kiến trúc sư cảnh quan.
Người thiết kế ánh sáng cảnh quan chịu trách nhiệm về thiết kế ánh sáng lớn ngoài trời (thường) bao gồm chủ yếu là thực vật và lá cây. Thông thường việc thiết kế bao gồm ánh sáng, cây xanh, hồ bơi, cầu, đường dẫn, đài phun nước, tác phẩm điêu khắc, băng ghế, các khu vực còn lại và nhiều hơn nữa.
Người thiết kế chiếu sáng cảnh quan có các mục tiêu tương tự như các loại thiết kế ánh sáng khác. Họ thường chiếu sáng cho khả năng tầm nhìn, không khí, tâm trạng và sự quan tâm. Cũng như thiết kế ánh sáng sân khấu cho một bài thuyết trình ấn tượng, người thiết kế ánh sáng cảnh quan cũng thường có một mối quan tâm bổ sung rằng họ thường phải tạo ánh sáng an toàn và không khí đầu tiên, và thứ hai là sự tác động.
2) ÁNH SÁNG CẢNH QUAN - KỸ THUẬT
Chiếu sáng cảnh quan thường dùng đèn có điện áp thấp loại nhỏ (miniature). Bắt buộc phải có một hệ thống điện thế thấp để bảo đảm an toàn hơn và giảm nguy cơ bị điện giật, vì thiết bị và hệ thống dây điện thường hoạt động trong môi trường ẩm ướt.
Thiết bị thường nằm trên mặt đất để uplight cho các cây và bụi cây hay có thể được đặt trên cây uplight (hay downlight) thân cây. Các đèn cảnh quan khác bao gồm việc xử dụng các cột (bollard) chiếu sáng. Những cái cột này như thiết bị có rất nhiều loại và thường được xử dụng để thắp sáng đường đi, lá cây hay các khu vực bên ngoài khác. Cột đèn trang trí, có số lượng không giới hạn của thiết kế cũng thường được xử dụng.
Thông thường, ánh sáng cảnh quan được đặt trên một hệ thống điều khiển có thể biến hệ thống "mở” hay “tắt" vào các thời điểm cụ thể. Cách khác, một hệ thống có thể xử dụng một điều khiển dùng tế bào quang điện, biến hệ thống mở vào lúc hoàng hôn và tắt lúc bình minh.
(kỳ tới: Phần 4/7 - Ánh sáng chuyên nghiệp - Quy trình)
(theo Bill Williams)